THỊ TRƯỜNG VÀ TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG SOĐA

Ngày đăng 10/4/2013 10:01:54 PM

1.    Thị  trường châu á- thái bình dương
TQ là nước có công suất sôđa tăng lớn nhất trong suốt năm 2006, tuy nhiên, giá sôđa chỉ tăng gần 5USD/ tấn, vì mức tăng trưởng xuất khẩu sôđa bị chậm lại trong vài năm qua. Trong năm 2006, TQ xuất khẩu 1,8 triệu tấn sôđa, tăng 1,1 triệu tấn so với năm 2005. Nhưng năm 2006, TQ lại nhập khẩu sôđa cao hơn năm 2005, do đó tổng xuất khẩu sôđa của TQ bị giảm 3% (52 nghìn tấn).
Dennis Kostick, một chuyên gia về sôđa tại USGS khẳng định, các nhà sản xuất đang xem xét việc mở rộng thị trường sôđa sang Nam Mỹ và châu Á. TQ đã vượt mức tăng trưởng của châu Á trên thị trường sôđa trong vài năm gần đây.
Cuối năm 2005, Công ty Tata Chemicals (TCL) - một công ty thuộc Tập đoàn Tata (Ấn Độ) đã mua được hãng sản xuất sôđa Brunner Mond với các hãng kinh doanh của hãng đặt ở Kenia và Netherland. Điều này cho phép TCL tham gia vào các thị trường xuất khẩu mới ở châu Âu, châu Phi và Đông Á.
Cũng trong thời gian này, một nhà sản xuất khác của Ấn Độ là Gujarat Heavy Chemicals (GHCL) đã mua được nhà máy sôđa của Rumani với trị giá 24 triệu USD, và trong năm 2006 mua được nhà máy sôđa thứ hai của nước này.
GHCL đang tiến tới mục tiêu phát triển các thị trường ở trung tâm và Đông Âu, vì nhu cầu của các lĩnh vực bao gồm thủy tinh, hóa chất, gốm sứ, xi măng, vật liệu chịu lửa và thép đang tăng ở khu vực này. Ngoài ra, Ấn Độ đang nắm giữ các phương pháp nhằm tăng công suất để phục vụ cho thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu đang tăng trưởng.
2.    Thị trường toàn cầu
Các nguyên liệu thô cho sản xuất sôđa có rất nhiều và hầu như không thể cạn kiệt. Cho dù trữ lượng quặng trona có giới hạn, nhưng trữ lượng đá vôi, muối, amoniac lại rất phổ biến và rất nhiều. Đôi khi, sôđa được sản xuất như sản phẩm phụ của quá trình sản xuất nhôm từ nephelin xienit.
Giá sôđa ở Đông Âu được đoán là sẽ tăng 5 Euro (6,6USD)/ tấn
Trong vài năm gần đây, Công ty Rio Tinto đã phát triển quặng trona Kazan ở khu vực Ankara (Thổ Nhĩ Kỳ). Hiện nay Công ty Sođa Eti đang khai thác vùng trầm tích Trona Beypazari cũng được đặt tại khu vực Ankara của nước này.
Một tập đoàn đầu tư ở Bắc Kinh (TQ) đã xây dựng một nhà máy với trị giá 100 triệu USD tại Kungrad (Ubêkitxtan). Nhà máy này đã đi vào hoạt động giữa năm 2006 với công suất 100 nghìn tấn sôđa/ năm nhờ sử dụng nguồn muối lấy từ Barsakelmes và đá vôi lấy từ Jamanssay. Ubêkitxtan sẽ tiêu thụ khoảng 60 - 70 nghìn tấn/năm và còn lại là xuất khẩu.
Sôđa tổng hợp đắt hơn (tính cả về các chi phí sản xuất và tiêu hao năng lượng) so với đi từ các quặng sôđa tự nhiên trên thế giới. Tuy nhiên, sôđa tổng hợp có chất lượng cao hơn rất nhiều so với sôđa được sản xuất từ quặng trona.
Các sản phẩm phế thải của quy trình Solvay (tổng hợp sôđa) đều có hại cho môi trường, và có thể gây ra những vấn đề quản lý phế thải nguy hiểm. Hiện nay, biện pháp để kiểm soát và làm giảm các sản phẩm công nghiệp phế thải/phát thải các độc tố ra môi trường đang được đặt ra đối với quá trình sản xuất sôđa tổng hợp. Ngoài ra, quá trình sản xuất sôđa tổng hợp đòi hỏi nhiều nhân lực hơn so với sản xuất sôđa từ tự nhiên.
Tóm lại, sôđa tổng hợp vẫn có những lợi ích riêng (mặc dù đắt hơn và có hại cho môi trường) - chất lượng là một trong những ưu điểm của chúng. Tuy nhiên, theo Alan William, một nhà quản lý ở Anh, sôđa là một sản phẩm hàng hóa trong nhiều lĩnh vực. Cả quy trình Solvay cho sản xuất sôđa tổng hợp và quy trình monohyđrat cho sản xuất sôđa từ tự nhiên đều có thể sản xuất ra sôđa với những đặc tính có thể thay đổi được, do đó, sự khác nhau giữa 2 sản phẩm này là rất ít.
Một trong những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính 2007-2009 đối với hoạt động cung cầu khoáng chất trên thế giới là sự định hình lại của các ngành sản xuất mà trong đó khoáng chất được sử dụng như nguyên liệu đầu vào quan trọng.
Quá trình hợp lý hóa sản xuất diễn ra sau đó - khi các thị trường như xe ôtô, xây dựng, sản xuất thủy tinh,.. chuyển một phần các trung tâm sản xuất của mình sang các nước đang phát triển - đã làm thay đổi hoàn toàn các chuỗi cung ứng truyền thống.
Sau thời kỳ khủng hoảng, quá trình phục hồi của sản lượng công nghiệp toàn cầu đã diễn ra nhanh nhất tại các nước đang phát triển - khu vực phát triển nhanh của thế giới, nơi mà quá trình hiện đại hóa và sự gia tăng của các tầng lớp trung lưu giàu có đang đảm bảo cho nhu cầu đối với hầu như tất cả các loại hàng hóa, từ nhà cửa cho đến thiết bị điện tử công nghệ cao.
Ngành sản xuất sôđa đã không đứng ngoài quá trình chuyển đổi này. Những thị trường tiêu thụ cuối cùng của ngành, ví dụ các lĩnh vực sản xuất thủy tinh, chất tẩy rửa và hóa chất, đã trở thành một phần của sự phục hồi nhanh khi nhu cầu tiêu thụ tăng mạnh trở lại.
Kết quả là ngành sản xuất hóa chất có tính kiềm này - cho dù khai thác từ các nguồn nguyên liệu tự nhiên hay sản xuất theo phương pháp tổng hợp - đã thoát khỏi tình trạng trầm lắng sâu của thị trường trong những năm 2009 - 2010 và trỗi dậy trong tình trạng tương đối ít bị tổn thương.
Theo các công ty sản xuất hóa chất, nhu cầu sôđa trong năm 2011 đã rất thuận lợi ở hầu hết tất cả các thị trường, trong đó một số thị trường đã thể hiện sự gia tăng mạnh mẽ của nhu cầu này.
Các nhà sản xuất sôđa tại Bắc Mỹ, Ấn Độ, Kenia, Thổ Nhĩ Kỳ và các nước châu Âu hiện đang vận hành với công suất ổn định, còn các nhà sản xuất Trung Quốc cũng đang hoạt động với công suất vận hành tối ưu. Cung cầu sôđa trên phần lớn các thị trường đã trở nên sít sao, một số thị trường có những dấu hiệu thiếu nguồn cung.
Tập đoàn Tata Chemicals của Ấn Độ đang ở vị thế tốt để đáp ứng xu hướng của thị trường. Tata Chemicals hiện đang vận hành các cơ sở sản xuất sôđa tại Ấn Độ, Kenia, Anh và Mỹ, với tổng công suất 5,3 triệu tấn/ năm, khiến cho Tập đoàn này trở thành nhà sản xuất sôđa lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau hãng Solvay của Bỉ.
Tata Chemicals cũng đánh giá rằng tiêu thụ sôđa đang tăng ở tất cả các thị trường, trong khi đó các khu vực đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, châu Mỹ La tinh, Đông Nam á đang thể hiện tốc độ tăng trưởng đặc biệt cao và lành mạnh.
Nhưng một thách thức then chốt đối với các nhà sản xuất sôđa là vấn đề chi phí đầu vào cao của nguyên liệu và năng lượng. Vấn đề này có vẻ như đang ảnh hưởng đến tất cả các nhà sản xuất sôđa ở tất cả các khu vực trên thế giới.
3.    Nhu cầu sôđa trên thế giới
Trung Quốc là nhà sản xuất sôđa lớn nhất thế giới, với sản lượng năm 2009 đạt 19,35 triệu tấn, chiếm gần một nửa tổng sản lượng sôđa toàn cầu. Vì vậy Trung Quốc cũng đang đóng vai trò chi phối đối với công suất sôđa của thế giới. Nước có thể cạnh tranh gần nhất với Trung Quốc là Mỹ với sản lượng sôđa năm 2009 đạt 10 triệu tấn. tiếp theo sau là các nước với công suất nhỏ hơn như Nga (2,3 triệu tấn), Thổ Nhĩ Kỳ (1,5 triệu tấn), Ấn Độ (1,5 triệu tấn).
Các nhà sản xuất sôđa trên thế giới có những ước tính khác nhau về sản lượng sôđa toàn cầu năm 2011, nhưng nhìn chung họ đều nhất trí cho rằng nhu cầu sôđa đang hồi phục.
Công ty FMC Wyoming, nhà sản xuất trona của Mỹ, tin rằng nhu cầu toàn cầu năm 2011 đạt khoảng 50-51 triệu tấn, tương đương tốc độ tăng trưởng 4-5% hoặc cao hơn năm 2010 vài triệu tấn. Theo FMC Wyoming, năm đạt mức sản lượng cao nhất trước đây là năm 2008. Sau đó, nhu cầu đã giảm mạnh trong năm 2009 khi kinh tế toàn cầu suy thoái. Nhu cầu sôđa bắt đầu tăng trở lại vào năm 2010 và có khả năng trong năm 2010 sẽ đạt cao hơn mức của năm 2008 (48,5 triệu tấn).
Các nhà kinh doanh sôđa tại Mỹ dự báo nhu cầu sôđa năm 2011 sẽ cao hơn 5% so với năm 2010, trong khi đó nhu cầu sôđa năm 2010 đã cao hơn năm trước 9%. Theo dự báo này, nhu cầu sôđa ở tất cả các lĩnh vực sử dụng đang khá mạnh, dẫn đầu là các ngành sản xuất kính xây dựng và sản xuất xe ôtô tại các thị trường mới nổi, và xu hướng này có khả năng sẽ tiếp tục cho đến năm 2015.
Tiêu thụ sôđa đang tăng vững tại tất cả các nước đang phát triển và các thị trường mới nổi. Trên thực tế, nhu cầu sôđa tại Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đã cao hơn dự kiến. Nhu cầu tại châu Âu và Bắc Mỹ tăng cao hơn năm trước, bất chấp những thông tin tiêu cực về các cuộc khủng hoảng nợ công tại các nước trong hai khu vực này.
Nhà sản xuất mới nổi của Thổ Nhĩ Kỳ là Công ty Eti Soda đã thông báo về tình hình nhu cầu mạnh hơn trong năm 2011 và cho rằng nguồn cung đang trở nên sít sao chủ yếu do một số điểm thắt nút cổ chai trong sản xuất sôđa tại Trung Quốc.
Theo Eti Soda, thị trường sôđa hiện đang tăng trưởng tại Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Mỹ và các nước đang phát triển, còn thị trường tại châu Âu và Mỹ duy trì ở cùng mức như năm trước.
Trong hội nghị các nhà phân tích thị trường sôđa cuối tháng 6/2011, các nhà quản lý của Công ty Solvay cho rằng họ thấy có sự khác biệt rõ ràng giữa châu Âu và Mỹ: Nhu cầu sôđa tại châu Âu đang hồi phục rõ rệt, nhất là ở các nước phía Bắc châu Âu, trong khi đó tại Mỹ vẫn chưa có những dấu hiệu thực sự về sự cải thiện nhu cầu sôđa. Theo Solvay, cả thị trường Mỹ và châu Âu đều được duy trì nhờ nhu cầu từ châu Mỹ La tinh và châu Á.
Xu hướng đi lên của thị trường sôđa Mỹ
Công ty Solvay hiện là nhà sản xuất sôđa lớn nhất thế giới, với sản lượng 7 triệu tấn/ năm được sản xuất tại các nhà máy ở Bungari, Trung Quốc, Ai - Cập, Pháp, Đức, Italia, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Mỹ. Tại Mỹ, Solvay vận hành một nhà máy khai thác trona tại vùng đầm lầy Green River ở bang Wyoming và sở hữu một mỏ sôđa khai thác theo phương pháp dung dịch ở Colorado, nhưng mỏ này đã ngừng sản xuất từ năm 2004.
Tuy đã bị tụt hạng so với Trung Quốc và trở thành nước sản xuất sôđa lớn thứ hai trên thế giới, nhưng Mỹ vẫn là nước cung ứng sôđa tự nhiên lớn nhất thế giới, chủ yếu được sản xuất ở vùng đầm lầy Green River. Tại đây, tài nguyên khoảng 47 tỷ tấn trona có thể khai thác đang nằm trong các vỉa quặng trên một khu vực có diện tích 1000 dặm vuông. Nguồn quặng này đủ để đáp ứng nhu cầu sôđa của thế giới trong vài trăm năm, nó được hình thành trong quá trình bay hơi nước của hồ Gosiute thời cổ.
Hiện có 4 công ty đang khai thác sôđa tự nhiên tại vùng Green River. Ngoài Công ty Solvay Mỹ thì còn có 3 công ty khác là FMC Wyoming, OCI Chemicals và Tata Chemicals.
Một nhà sản xuất sôđa quy mô lớn khác của Mỹ là Công ty Searles Vally Minerals tại California, chi nhánh của Công ty Nirma (Ấn Độ). Tổng cộng, các nhà sản xuất sôđa tại Mỹ có công suất danh định 14,5 triệu tấn.
Trung Quốc là nước sản xuất sôđa lớn nhất thế giới, nhưng Mỹ lại đang dẫn đầu thị trường xuất khẩu sôđa: Năm 2008 Mỹ đã xuất khẩu khoảng 5,4 triệu tấn sôđa (tương đương 45% sản lượng trong nước). Trong các năm trước sự trông cậy vào thị trường xuất khẩu khiến cho các nhà sản xuất sôđa tại Mỹ dễ bị tổn thương, nhưng trong 18 tháng qua yếu tố này đã giúp họ duy trì sản xuất trong bối cảnh thị trường Mỹ trì trệ.
Các nhà sản xuất Mỹ đã thông báo sự sụt giảm đáng kể của nhu cầu sôđa nội địa trong năm 2009 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhu cầu trên thị trường sôđa nội địa của Mỹ đã giảm 15% trong năm 2009 và chỉ hồi phục được 5% trong năm 2010, tiếp theo là sự tăng trưởng chậm trong năm 2011, với nhu cầu chỉ tăng 1-2%.
Nhưng bất chấp sự suy thoái trên thị trường nội địa, các nhà sản xuất sôđa Mỹ vẫn nhận được các đơn đặt hàng lớn, đạt được giá bán cao và vận hành với toàn bộ công suất - chủ yếu là nhờ thị trường xuất khẩu.
Một trong những bằng chứng cho điều này là việc Công ty FMC đã cho khởi động lại nhà máy Granger của mình. Nhà máy này đã tạm ngừng sản xuất từ tháng 7/2011 nhưng hiện đã được vận hành trở lại với công suất 500.000 tấn/ năm, đạt công suất thiết kế. FMC đồng thời cũng công bố đã bắt đầu kế hoạch mở rộng nhà máy để đạt công suất 1,2 triệu tấn/ năm trong vài năm tới.
Cách đây 10 năm, các nhà sản xuất Trung Quốc đã vận hành hầu như toàn bộ các nhà máy sản xuất sôđa trong nước với công suất cao nhất để xuất khẩu sản phẩm này với giá bằng hoặc gần bằng giá thành. Nhưng ngày nay Trung Quốc thà chấp nhận giảm tỷ lệ vận hành công suất chứ không muốn bán lỗ, trong khi đó giá thành sản xuất sôđa của họ cũng đã giảm hơn so với trước.
Năm 2011 Mỹ đã tăng xuất khẩu sôđa do tình hình tiêu thụ trì trệ trong nước kết hợp với khả năng cạnh tranh cao của các nhà máy sôđa thuộc các công ty Mỹ ở nước ngoài.
Công ty FMC không phải là nhà sản xuất sôđa duy nhất của Mỹ mà hiện đang có kế hoạch mở rộng sản xuất. Các công ty khác của Mỹ cũng đang xem xét khởi động một số dự án sản xuất sôđa trong thời gian 2014 - 2015.
Thổ Nhĩ Kỳ tham gia thị trường xuất khẩu sôđa
Thị trường sôđa châu Âu cũng đã chứng kiến sự nổi lên của một nhà xuất khẩu mạnh, đó là Công ty Eti Soda - liên doanh giữa một công ty quốc gia và một công ty tư nhân của Thổ Nhĩ Kỳ.
Công ty Eti Soda được thành lập năm 1998 và bắt đầu tham gia thị trường sôđa từ năm 2009. Ngay trong năm sản xuất đầu tiên của mình, Eti Soda đã đạt mục tiêu sản lượng là 1 triệu tấn sôđa/ năm. Công ty xuất khẩu 93-95% của tổng sản lượng sôđa này, trong đó 87% được bán sang thị trường châu Âu.
Trước đó, Công ty Soda Sanayi là nhà sản xuất sôđa duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, với một nhà máy sản xuất sôđa theo phương pháp tổng hợp, công suất 1 triệu tấn/ năm.
Việc Eti Soda tham gia thị trường sôđa đã ảnh hưởng bất lợi đến một số nhà sản xuất lâu năm khác tại châu Âu. Ví dụ, tháng 9/2009 Công ty Brunner Mond đã phải đóng cửa nhà máy sôđa 420.000 tấn/ năm của mình tại Hà Lan.
Trong khi đó, lĩnh vực sản xuất thủy tinh và kính xây dựng có thể là ngành tiêu thụ sôđa quan trọng trong vài năm tới. Các nhà sản xuất của Thổ Nhĩ Kỳ trong lĩnh vực này đang phát triển mạnh và tìm cách đầu tư vào châu Á và Trung Đông để mở rộng thị trường.
Sản xuất sôđa tại Trung Quốc
Trung Quốc là nước sản xuất sôđa hàng đầu thế giới với những công ty như Marine Sơn Đông (công suất 2,5 triệu tấn/ năm) và Sanyo Đường Sơn (công suất 2 triệu tấn/ năm). Tuy phần lớn sản lượng sôđa này đều được tiêu thụ trong nước, nhưng Trung Quốc đã nhanh chóng nổi lên vị trí hàng đầu trên thị trường sôđa thế giới nhờ đã tăng công suất sôđa lên gấp đôi chỉ sau một thập niên, đạt 24 triệu tấn/ năm.
Trong vài năm qua, sự tham gia của Trung Quốc trên thị trường xuất khẩu đã tăng mạnh: Năm 2008, Trung Quốc đã xuất khẩu trên 2 triệu tấn sôđa. Sự gia tăng mạnh của hoạt động xuất khẩu sôđa này đã là nguyên nhân gây ra những lo ngại cho các nhà sản xuất Mỹ mà từ trước đến nay thường chiếm tỷ lệ lớn trong xuất khẩu sôđa sang các thị trường châu Á.
Tuy nhiên, cân bằng lực lượng này trên thị trường xuất khẩu sôđa lại đang dịch chuyển. Trong vài năm qua, giá thành sôđa sản xuất tại Trung Quốc đã liên tục tăng. Mặt khác, đồng nhân dân tệ của Trung Quốc cũng tiếp tục tăng giá so với USD. Vì vậy, khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất sôđa Mỹ trên thị trường châu Á đã tăng lên, sản phẩm của họ đã có thể cạnh tranh với sản phẩm của Trung Quốc ở tất cả các nơi.
Nhu cầu sôđa trong nước của Trung Quốc hiện đang gia tăng và đạt khoảng 20 triệu tấn trong năm 2011 (tăng khoảng 8%). Nhu cầu sôđa ở các nước châu Á khác cũng tăng khoảng 3-4%/ năm, mặc dù nhu cầu của Nhật Bản vẫn rất yếu sau thảm họa động đất và sóng thần tháng 3/2011.
Tuy nhiên, chính sách của chính phủ Trung Quốc đối với việc phát triển ngành sản xuất sôđa hiện đang gây lo ngại cho các nhà đầu tư. Lần đầu tiên, kế hoạch 5 năm của Trung Quốc đã xếp ngành sản xuất sôđa vào trong số những ngành “tiêu hao nhiều năng lượng” - đây là những ngành được yêu cầu không nên đầu tư cho mục đích xuất khẩu sản phẩm, vì về cơ bản chúng đang xuất khẩu năng lượng ra nước ngoài.
Các nhà đầu tư nước ngoài nghi ngờ khả năng của chính phủ trung ương Trung Quốc trong việc thực thi kế hoạch 5 năm nói trên, vì họ cho rằng nó mâu thuẫn với quyền lợi của các địa phương. Các chính quyền địa phương luôn mong muốn và khuyến khích đầu tư thông qua các biện pháp như miễn giảm thuế, do đó vẫn sẽ có những nhà máy được xây dựng mà không đáp ứng các tiêu chí của chính phủ trung ương.
Nhưng các biện pháp hạn chế phát triển công nghiệp sôđa của Trung Quốc cũng có những tác dụng nhất định. Do đó, trong các tháng cuối năm 2011 xuất khẩu sôđa của Trung Quốc đã giảm mạnh.
Triển vọng thị trường
Hiện tại, nhu cầu của các hộ sử dụng cuối cùng là một trong những yếu tố làm yên lòng các nhà sản xuất sôđa.
Nhu cầu sôđa trên thị trường châu Âu tuy đang tăng chậm do sự suy yếu của ngành xây dựng, nhưng thị trường này đang dần hồi phục. Tại Anh, thị trường thủy tinh và kính xây dựng đang hoạt động tốt nhờ sự mất giá của đồng bảng anh.
Trên toàn thế giới, đang có những dấu hiệu về nhu cầu cao đối với sôđa. Theo Công ty Tata Chemicals, thị trường kính phẳng toàn cầu đã quay trở về xu hướng tăng trưởng, hoạt động đầu tư mới tại các nước đang phát triển đang được thực hiện dựa trên cơ sở của các nền tảng mạnh. Thị trường chất tẩy rửa cũng duy trì ở trạng thái lành mạnh, nhu cầu của người sử dụng đang là động lực mạnh cho sự tăng trưởng của hoạt động sản xuất sôđa và các phụ gia dùng cho các chất tẩy rửa. Ngành khai khoáng ở hầu hết các khu vực trên thế giới cũng đang hồi phục và các ứng dụng mới trong các lĩnh vực như ắc quy ion liti, khí đá phiến, xử lý ô nhiễm,… sẽ tiếp tục thúc đẩy nhu cầu sôđa .
Trong năm 2011, giá sôđa đã duy trì ổn định ở tất cả các thị trường, với những dấu hiệu mạnh của các nhà sản xuất cho thấy ưu tiên cao nhất của họ là xử lý áp lực của giá đầu vào (nguyên liệu và nhiên liệu) theo cách sao cho đảm bảo lợi nhuận đồng thời đáp ứng nhu cầu sôđa đang ngày càng tăng.
Vấn đề then chốt đối với các nhà sản xuất sôđa châu Âu là kiềm chế chi phí sản xuất để tăng lợi nhuận. Nhu cầu tại khu vực đang được cải thiện và hoạt động xuất khẩu cũng đang diễn biến tốt, do đó các nhà sản xuất sẽ có khả năng tăng giá sôđa nếu cân bằng cung cầu thuận lợi.
Tuy nhiên, giá sôđa tăng cũng sẽ khuyến khích các nhà sản xuất Trung Quốc gia tăng sản lượng. Vấn đề là liệu các nhà sản xuất Mỹ và Trung Quốc có chấp nhận hy sinh lợi nhuận để gia tăng thị phần của mình trên thị trường sôđa hay không?